Theo dòng chảy của thời gian – sự kiện, Đảng ta không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng. Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đó là một minh chứng sinh động, khẳng định tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã trung thành tuyệt đối và vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo cho riêng mình vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Kiên định trên sự hiểu biết, nắm vững các quy luật vận hành và vận dụng linh hoạt sáng tạo trong các mối quan hệ, phát triển trên cơ sở kiên định nguyên tắc cách mạng và khoa học phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, với xu thế của thời đại. Xác định thực tiễn luôn vận động, thay đổi, phát triển không ngừng nên cần phải có lý luận và nguyên tắc để hoạt động và được bổ sung cập nhật kịp thời với sự phát triển của xã hội đương đại.
Nhìn trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay tiếp tục có những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Việc bảo vệ và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, từng bước hiện thực hóa lý tưởng, mục tiêu về chủ nghĩa xã hội phải được chứng minh trên thực tế, khẳng định tính cách mạng, khoa học của tư tưởng phù hợp với thời đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phải tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với việc tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, là cơ sở thực tiễn chứng minh giá trị và khẳng định sức sống của một hệ thống lý luận cách mạng, khoa học. Vì vậy, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là phát huy sức mạnh, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam, là nét riêng sáng tạo không trộn lẫn với đất nước nào. Khẳng định giá trị tư tưởng to lớn của Người, văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần IX và lần thứ XI đều viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta”. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân tích làm sáng tỏ Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên tiếp nhận và đưa chủ nghĩa xã hội khoa học về cho dân tộc mình, khẳng định giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Đảng ta luôn kiên định, trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định: “là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”. Càng khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp khoa học, nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính, truyền thống lịch sử, tinh hoa văn hóa của dân tộc, thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ của thời đại; là tài sản tinh thần to lớn của dân tộc ta; đã, đang và sẽ mãi là ngọn cờ soi sáng con đường cách mạng Việt Nam và cả về sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta bài học sâu sắc, chỉ dẫn xuyên suốt xác định tư tưởng đổi mới là tư tưởng có tính cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp giá trị truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, nhu cầu khách quan của thực tiễn đất nước. Người khẳng định, đạo đức mới là phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết, trước hết, đổi mới vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh. Đảng ta xác định phương châm đổi mới là kiên định, sáng tạo, dân chủ, thực tiễn, hiệu quả, nói đi đôi với làm. Đó chính là những giá trị bền vững của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đang đồng hành cùng dân tộc và dòng chảy văn minh của nhân loại.
Đối với công cuộc đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và Nhân dân ta tiến hành từ năm 1986, tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị đặc biệt cả về lý luận và thực tiễn. Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề cập từ sớm trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927); Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt” và được làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là: “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), “Đời sống mới” (năm 1947), đặc biệt trong bản Di chúc thiêng liêng (1965-1969) để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trước lúc Người đi xa. Triết lý đổi mới, chân lý đổi mới là ích nước, lợi dân: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý” ; “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Từ các bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh toát lên một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng và định hướng về đổi mới. Người khẳng định đổi mới là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ, phải kiên định, kiên quyết, kiên trì, lựa chọn những bước đi thích hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: thắng đế quốc, phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng, lạc hậu còn khó hơn nhiều; đấu tranh xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, nặng nề, phức tạp và khó khăn, do vậy phải có kế hoạch tỉ mỉ, chuẩn bị chu đáo, thực hiện chắc chắn.
Người xác định sức mạnh của đổi mới là Nhân dân, nhấn mạnh: “Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân” để giành thắng lợi “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”; phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam sẵn sàng là bạn của các nước dân chủ. Đảng là linh hồn của đổi mới. Đảng phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ thực tiễn của Việt Nam và thế giới để bổ sung những tư liệu, vấn đề mà các nhà kinh điển ở thời mình không thể có được để đề ra và thực hiện đường lối, chủ trương đúng đắn. Người chỉ rõ: thế giới ngày ngày đổi mới, xã hội ngày một phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ, do vậy, cán bộ, đảng viên không thể “giữ cái kẹp giấy cũ không thay đổi”, “tư tưởng, hành động cũng phải phát triển”;“phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới mạnh mẽ trong thời gian gần đây, trực tiếp là thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, lần thứ XIII của Đảng đã tổng kết thành các bài học kinh nghiệm sâu sắc, trong đó quan trọng nhất là phải tôn trọng quy luật khách quan, ứng biến với những thay đổi không ngừng của thời đại ngày nay nhưng vẫn “kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”; từ nay đến giữa thế kỷ XXI qua các cột mốc năm 2025, 2030 và năm 2045, toàn Đảng, toàn dân xác định mục tiêu, nhiệm vụ chính trị chiến lược hàng đầu là “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều kiện, hoàn cảnh, thực tiễn đổi mới của nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, to lớn, vô cùng phức tạp, đòi hỏi cần được giải quyết sáng tỏ về mặt lý luận để phát triển đất nước, đưa dân tộc tới bến bờ phồn vinh, hạnh phúc. Nhiều vấn đề cụ thể, mới và khó nảy sinh trong đổi mới, lúc sinh thời Hồ Chí Minh chưa có điều kiện đề cập, càng chưa thể có trong di sản của Mác - Lênin. Nhưng các bậc thầy đã cung cấp cho chúng ta những nguyên lý, nguyên tắc, thế giới quan và phương pháp luận. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là phải biết vận dụng tinh thần, lập trường, quan điểm, phương pháp để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của công cuộc đổi mới theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Điểm mấu chốt là cần thiết phải nghiên cứu những vấn đề lý luận, bởi không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Lý luận đó đương nhiên phải xuất phát từ thực tiễn và phải quy lại phục vụ thực tiễn. Thoát ly thực tiễn - nhất là thoát ly tâm tư, nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân - thoát ly cuộc sống, thoát ly xu thế đổi mới và diễn biến của thời đại, thì lý luận chỉ là không tưởng. Lý luận đó gắn với “đổi mới” mang sắc thái, diện mạo, dấu ấn Việt Nam. Muốn đạt được mục đích đó trong một thế giới đầy biến động, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường thì phải có sự kiên quyết, kiên trì, có nhiệt tình, quyết tâm dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiêm; có tầm nhìn, tư duy chiến lược, quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và khát vọng phát triển là những yếu tố cần nhưng chưa đủ. Đổi mới phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, hướng vào giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra, phù hợp với tình hình Việt Nam và thế giới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong công cuộc đổi mới.
Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. Nhờ vận dụng, bổ sung và phát triển đúng đắn, sáng tạo tư tưởng của Người thời kỳ đổi mới, Đại hội XIII của Đảng ta đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều này chứng tỏ con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn hoàn toàn đúng đắn cả lý luận và thực tiễn. Đó cũng là minh chứng hùng hồn phản bác lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam hay đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm.
Đảng ta không ngừng hoàn thiện tư duy lý luận, nâng cao, nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về con đường lên chủ nghĩa xã hội. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận là nguyên nhân cơ bản của thắng lợi vĩ đại trong 2 cuộc kháng chiến, cũng như những thành tựu to lớn đã đạt được khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Thành quả đó đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Sự nghiệp đổi mới của nước ta đến nay đạt được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử cũng chính nhờ chúng ta nhận thức đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng, vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Được đồng chí Tổng Bí thư chỉ ra rằng: Đổi mới một cách vô nguyên tắc thì cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”. Kiên định mà không biết vận dụng, phát triển sáng tạo thì không thể thành công. Vì vậy, kiên định phải gắn liền với vận dụng, phát triển sáng tạo; vận dụng và phát triển sáng tạo phải gắn và đứng vững trên nền kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới. Điều này càng được khẳng định rõ tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII. Nếu “kiên định, phát triển” là kiên trì làm theo, đi theo những quan điểm, tư tưởng, làm cho những quan điểm, tư tưởng ấy ngày càng sinh động, có thêm những nội hàm mới thì “vận dụng sáng tạo” là sự chắt lọc những quan điểm của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam, tránh sự máy móc, xơ cứng. Đảng ta tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo và đã kịp thời bổ sung thêm quy định liên quan trực tiếp đến lập trường tư tưởng, thái độ của đảng viên đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Đó là đảng viên không được “phản bác, phủ nhận, xuyên tạc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây là sự bổ sung kịp thời nhằm khắc phục triệt để những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
Đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận chính trị; có ý thức khắc phục triệt để bệnh “lười” học tập lý luận chính trị, không ngừng củng cố, nâng cao kiến thức để tăng “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch; song cũng vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng của Người vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, tình hình mới; tránh tư duy rập khuôn, máy móc, giáo điều làm xơ cứng, nghèo nàn những quan điểm, tư tưởng của các bậc tiền bối. Kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận truyền thống là chủ yếu sang đấu tranh trên internet và mạng xã hội. Tăng cường áp dụng những quy định của pháp luật để xử lý nghiêm minh những đối tượng có hành vi xuyên tạc, chống phá dưới bất kỳ hình thức nào.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm, tính sáng tạo trong việc học tập, nghiên cứu làm giàu thêm kiến thức cho chính mình trên phương diện lý luận. Nêu cao vai trò công tác bảo vệ chính tri nội bộ, tăng cường chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ; thường xuyên tu dưỡng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc nghiên cứu, học tập, tuyên truyền để tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu, thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.