Đảng cộng sản Việt Nam không những tổ chức ra Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn lãnh đạo, rèn luyện và xây dựng quân đội thực sự là đội quân cách mạng, mang bản chất giai cấp công nhân; có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao cho.
Trong thực tiễn sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội ta là tất yếu khách quan bắt nguồn từ quy luật giai cấp và đấu tranh giai cấp; từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, chiến tranh và quân đội; về bạo lực cách mạng và nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân; từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tổ chức và hoạt động của quân đội đòi hỏi Đảng cộng sản phải lãnh đạo chặt chẽ, nắm chắc quân đội. Theo V.I. Lênin, sự lãnh đạo đó là khách quan, là nhân tố quyết định bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới, khi mà chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản đã trở nên phản động, hiếu chiến, xâm lược. V.I.Lênin đã phân tích một cách sâu sắc tính tất yếu khách quan của việc xây dựng một tổ chức quân sự của giai cấp vô sản, bởi vì không có bạo lực cách mạng thì giai cấp vô sản không thể chiến thắng được kẻ thù, đồng thời Người chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”[1]. Xem xét về vấn đề chiến tranh và quân đội, V.I.Lênin chỉ ra rằng: Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn khác, thủ đoạn bạo lực. Trong mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị: chính trị là mục đích, chiến tranh là công cụ, để đạt được mục đích chính trị thì giai cấp, nhà nước phải có công cụ mạnh, công cụ mạnh đó là quân đội. Quân đội bao giờ cũng là quân đội của một giai cấp, một nhà nước nhất định, do một giai cấp, một nhà nước tổ chức ra, nuôi dưỡng và sử dụng nó vào mục đích chính trị. Sức mạnh của nhà nước trước hết biểu hiện ở sức mạnh của quân đội. Do đó, bao giờ quân đội cũng phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp, của nhà nước nhất định, mang bản chất của giai cấp đã sinh ra nó. Không có quân đội của nhiều gia cấp, siêu giai cấp, phi giai cấp. Quân đội của giai cấp tư sản mang bản chất của giai cấp tư sản, quân đội của giai cấp công nhân mang bản chất của giai cấp công nhân. Để quân đội mang bản chất giai cấp công nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân.
Trung thành và vận dung đúng đắn, sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng và những nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, kế thừa và phát triển kinh nghiệm truyền thống “Dựng nước phải đi đôi với giữ nước” qua mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam và kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, cũng như kinh nghiệm của bản thân với tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm thấy rõ con đường cách mạng Việt Nam chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản. Người kết luận: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình; “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”[2].
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng để tiến hành cách mạng bạo lực không phải chỉ là lực lượng vũ trang, phương thức tiến hành cách mạng bạo lực không phải chỉ là đấu tranh quân sự. Người đã chỉ rõ: cách mạng bạo lực bao giờ cũng phải dựa vào hai lực lượng: lực lượng chính trị của toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang. Phương thức tiến hành cách mạng bạo lực phải vừa là đấu tranh chính trị, vừa là đấu tranh quân sự, phải kết hợp hai phương thức ấy cho phù hợp với tình hình từng nơi, từng lúc để giành thắng lợi.
Khi đã có chính quyền thì khẩn trương phát triển lực lượng, chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù bằng bạo lực cách mạng để giữ vững chính quyền. Khi buộc phải kháng chiến thì kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[3]. “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”[4].
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (tháng 2 năm 1930), Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh ) đã đề xuất việc: “Tổ chức ra quân đội công nông” và tiếp sau đó là Luận cương Chính trị của Đảng (tháng 10 năm 1930) đã nêu vấn đề “vũ trang cho công nông”, “lập quân đội công nông”, “tổ chức đội tự vệ công nông”. Tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng năm 1935, Đảng đã ra Nghị quyết về tổ chức và lãnh đạo tự vệ thường trực, đã chỉ rõ: công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương, quân ủy Đảng Cộng sản... luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong đội tự vệ. Đảng cho rằng, việc tổ chức ra quân đội để tiến hành đấu tranh cách mạng là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng cách mạng, Đảng rất coi trọng xây dựng lực lượng quân sự và giữ quyền lãnh đạo chặt chẽ quân sự trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Không những tổ chức ra quân đội, Đảng còn xác định sự tất yếu phải lãnh đạo quan đội đó. Quyền lãnh đạo quân đội thuộc về đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, không phân quyền lãnh đạo đó cho một giai cấp nào, một tổ chức, một đảng phái nào khác. Trong điều kiện lịch sử nhất định, về sách lược, có thể có sự liên hiệp nhất định trong mặt trận, trong chính quyền, nhưng quân đội là lực lượng vũ trang của Đảng, công cụ chủ yếu của Nhà nước chuyên chính vô sản, thì Đảng phải nắm quyền lãnh đạo. Có như vậy thì sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội mới vững chắc và thích hợp với tính chất, đặc điểm của quân đội. Chính nhờ nắm chắc và lãnh đạo chặt chẽ quân đội mà Đảng đã phát huy được sức mạnh của quân đội, làm cho quân đội luôn mang bản chất giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch trong xây dựng và lãnh đạo quân đội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ thực tiễn và kinh nghiệm tổ chức và lãnh đạo quân đội của các Đảng cộng sản thế giới đã chỉ rõ: bất kỳ ở đâu, trong tình huống nào Đảng Cộng sản phải thường xuyên nắm chắc và giữ vai trò lãnh đạo đối với quân đội thì quân đội mới luôn là lực lượng trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nếu khi nào Đảng Cộng sản buông lỏng sự lãnh đạo của mình đối với quan đội, lập tức quân đội xa rời mục tiêu chiến đấu, bị mất phương hướng chiến đấu, dẫn đến biến chất và bị kẻ thù vô hiệu hoá, trở thành lực lượng đối trọng của giai cấp, của nhà nước đã tổ chức ra nó. Thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, sâu sắc và mau lẹ, đang đặt ra yêu cầu cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, chúng ta không một phút lơ là đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, .... để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa... Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”[5].
Sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt. Do đó, Đảng ta chủ trương tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực trạng nhận thức, trách nhiệm của một số tổ chức đảng và đảng viên cũng như cơ chế tổ chức thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội còn những vấn đề bất cập; chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện sự chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Chúng coi Việt Nam là một trọng điểm tập trung chống phá nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Một trong những âm mưu thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” là “Phi chính trị hoá quân đội”, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội phai nhạt bản chất giai cấp công nhân, xa rời mục tiêu lý tưởng chiến đấu, mất phương hướng chính trị, quân đội không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng cho rằng nếu không làm cho quân đội suy yếu, dao động về mặt tư tưởng, mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ... thì không thể giành thắng lợi ở Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, vì vậy chúng đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phản động như “quân đội là của chung dân tộc, làm nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm chứ không phải để bảo vệ chế độ”, “quân đội mang bản chất nhân dân chứ không mang bản chất của giai cấp công nhân”... thực chất là muốn tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, vô hiệu hoá quân đội, nhằm thực hiện âm mưu thâm độc của chúng như đã từng diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên xô trước đây. Từ tình hình thực tiễn trên đây đòi hỏi chúng ta phải bình tĩnh, sáng suốt và nhạy bén xử trí có hiệu quả các tình huống xảy ra, phải kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc về chiến lược, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt về sách lược. Kiên quyết đấu tranh trên mặt trận lý luận, tư tưởng nhằm đập tan những luận điệu xuyên tạc và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Một trong những biện pháp quan trọng đó là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận để bảo vệ và làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời phải coi việc thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một tất yếu khách quan trong tình hình hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam, không những tổ chức ra Quân đội nhân dân Việt Nam, mà còn lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, xây dựng quân đội thực sự là quân đội cách mạng của giai cấp công nhân, “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, mang bản chất của giai cấp công nhân. Trải qua hơn 77 năm xây dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quân đội ta đã làm nên truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của mình, đó là “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Để thực hiện sự lãnh đạo đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Đảng ta đã định ra nguyên tắc: Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống các nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Nguyên tắc này chi phối đến quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của quân đội, chi phối các nguyên tắc khác, nó quyết định đến phương hướng chính trị, bản chất giai cấp công nhân, nội dung phương thức hoạt động, mục tiêu chiến đấu, đối tượng tác chiến của quân đội. Nguyên tắc này nhằm xây dựng, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, xác định rõ chức năng chính trị xã hội cho quân đội, bảo đảm cho Đảng luôn nắm chắc quân đội, lãnh đạo chặt chẽ quân đội trong mọi tình huống, làm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, thực sự là quân đội “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, luôn có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù.
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của Đảng và đặc điểm về tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của quân đội, trong từng giai đoạn cụ thể của cách mạng, tên gọi của nguyên tắc có khác nhau, nhưng tư tưởng cơ bản, xuyên suốt của nguyên tắc là, Đảng ta khẳng định dứt khoát quyền lãnh đạo quân đội là thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Quyền lãnh đạo đó không chia sẻ cho bất cứ một đảng phái nào, một tổ chức nào, một cá nhân nào. Sự lãnh đạo đó là lãnh đạo trực tiếp không thông qua một khâu trung gian nào, một tổ chức trung gian nào. Đồng thời sự lãnh đạo đó trên tất cả các lĩnh vực hoạt động chính trị, tư tưởng, tổ chức; trên tất cả các mặt công tác: quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; trong tất cả các nhiệm vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng, lao động sản xuất và làm nghĩa vụ quốc tế; lãnh đạo mọi tổ chức, mọi lực lượng của quân đội trong mọi điều kiện hoàn cảnh. ở đâu và lúc nào có tổ chức và hoạt động của quân đội là ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được thể hiện bằng cơ chế, tổ chức, bộ máy lãnh đạo đồng bộ, chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở; sự lãnh đạo đó tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây: Đảng lãnh đạo định ra đường lối quân sự, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân; lãnh đạo nghiên cứu xây dựng và phát triển nền khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam; lãnh đạo xây dựng trang bị vật chất kỹ thuật và tổ chức nuôi dưỡng bộ đội; lãnh đạo tiến hành công tác cán bộ trong quân đội.; lãnh đạo tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Để thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, Đảng đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo đối với quân đội cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là phương thức lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với quân đội trong những giai đoạn cách mạng, được thể hiện bằng hệ thống các nguyên tắc lãnh đạo, phù hợp với nguyên tắc đó là hệ thống tổ chức hoàn chỉnh, hợp lý, được tổ chức từ cơ sở đến toàn quân, nhằm bảo đảm cho Đảng lãnh đạo chặt chẽ quân đội, phát huy cao độ trách nhiệm của người chỉ huy, nâng cao năng lực của các tổ chức đảng và góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Hệ thống các nguyên tắc trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội gồm: Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt Nam; tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức từ cơ sở đến toàn quân theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương; các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức đảng phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách, bảo đảm chấp hành nghiêm túc nghị quyết của Đảng ủy, mệnh lệnh, chỉ thị của cơ quan chỉ huy cấp trên; trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo tập thể của tổ chức đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội; ở mỗi cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên.
Hệ thống các nguyên tắc trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một thể hoàn chỉnh, thống nhất biện chứng, không tách rời nhau. Quá trình thực hiện các nguyên tắc đó cần phải nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các nguyên tắc, đồng thời biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị, tuyệt đối không được tách rời, đối lập hoặc xem nhẹ một nguyên tắc nào. Mặt khác phải chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tiếp tục nghiên cứu phát triển cả về lý luận nhằm không ngừng bổ sung và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình hiện nay.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong điều kiện hiện nay, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp cơ bản sau đây: Một là, chú trọng đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận, cụ thể hoá đường lối quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam; hai là, phát huy vai trò của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của toàn dân chăn lo xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt; ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; bốn là, Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh trong sạch, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; năm là, xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp vững mạnh.
Đất nước ta đang có những thời cơ và vận hội mới, đồng thời đứng trước những thách thức lớn cần phải vượt qua. Đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa cả về lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc nói chung và đối với quân đội nói riêng, nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong điều kiện mới. Phải khẳng định cho được vấn đề có tính nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, trong đó có nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật, bài học kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và kinh nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Trên cơ sở đó, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của quân đội trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, cũng như trong công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh, đập tan và làm thất bại những luận điệu xuyên tạc, phản động và mọi âm mưu thủ đoạn chống phá sự lãnh đạo của Đảng của kẻ thù, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
[1] V.I.Lênin,Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, Tập 38, tr. 53.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà nội, 2000, Tập 12, tr. 304.
[3]S.đ.d, Tập 4, tr. 480.
[4]S.đ.d, Tập 12, tr.407.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t.1, tr.155, 156, 157