Ở một đô thị quanh quẩn mấy con đường dường như khó gặp nhau cho điểm hẹn. Con Sông Dinh thì nép mình theo những đám vườn xưa, lưa thưa tán dừa xanh già cỗi. Đâu đó, bóng chiều phai nắng làm mơ màng màu nước sông trôi để thức tiếng chim bìm bịp gọi cơn nước lên. Như một yếu tố quyết định của người xưa khi tụ hội quần cư, mở đất lập nghiệp là dựa vào một dòng sông để trên bến dưới thuyền và phù sa bồi đắp. Nghề biển cũng thuận, làm nông cũng lợi.
Địa bàn thị xã La Gi ngày nay khi ấy nằm trong đơn vị hành chánh huyện Hàm Tân phía nam Bình Thuận, đã có hai địa danh cư dân sớm nhất là Tam Tân bên dòng Sông Phan (Tân Hải) và làng Phước Lộc (hữu ngạn cửa Sông Dinh). Theo đó, dưới thời nhà Nguyễn lập ra dịch trạm Thuận Phước (Phước Lộc) và Thuận Trình (Tam Tân) nằm trong hệ thống liên lạc bưu chính bấy giờ. Gốc gác lưu dân đặt chân sớm nhất ở đây là người vùng biển Quảng Nam, cùng một số nhóm dân từ Phan Thiết vào lập nghiệp bằng nghề biển. Có tính qui mô về tổ chức hơn là các xứ đạo Thiên chúa giáo Tân Lý (1885), Hàm Thắng (1887). Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, La Gi- Hàm Tân là vùng căn cứ kháng chiến đã tiếp nhận dân lánh cư từ Hàm Thuận, Phan Thiết vào và từ Xuyên Mộc- Bà Rịa ra chọn đây làm đất “tỵ địa” nhưng cũng chỉ tập trung ở các cửa sông và đồng ruộng ven biển. Đến sau ngày có hiệp định đình chiến Genève 1954, thì làn sóng nhập cư của dân di cư Nghệ An, rồi các thời kỳ sau này dân miền Quảng Nam, Quảng Ngãi và Quảng trị lần lượt vào theo chiến lược “dồn dân” của chính quyền Sài Gòn, sống bằng nghề nông là chính. Trong quá trình phát triển nghề biển, xuất hiện mới từng nhóm dân từ Bình Định đi theo họ hàng, nghề nghiệp.
Từ những yếu tố cư dân tụ nghĩa như vậy cho nên địa phương La Gi rất khó tìm thấy nét đặc trưng về diện mạo nhân văn ở đây. Bởi lẽ trong sâu sa của mỗi con người, đặc biệt là người miền Trung dẫu tha phương từ thuở nhỏ, rồi sinh ra thế hệ con cháu vẫn thấm đậm trong giọng nói, phong ngữ cũng mang hơi hướm quê cha đất tổ. Trong văn hóa thờ cúng, nghi lễ giỗ chạp, cưới xin, ma chay…tuy có hòa nhập với thời đại một chút như cũng lấy cái cốt cách, gia phong để làm chuẩn mực ứng xử. Các xứ đạo của người dân di cư đến đây có từ năm 1956 như Vinh Thanh, Vinh Tân, Thanh Xuân vẫn đặc sệt giọng người Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn…Làng biển Phước Lộc, Tân Long với tỷ lệ dân quê Bình Định khá đông vẫn còn nặng cái giọng “nẫu” của Phú Yên nghe cưng cứng nhưng lại thật thà . Ở mỗi địa bàn đông dân cư cùng quê mới cảm nhận được cái nét riêng trong sinh hoạt, giao tiếp đó với điều không ngờ là thời gian không có ý nghĩa gì chi phối được phong cách tiềm ẩn trong đời sống, tập quán của họ. Người La Gi có giọng nói pha chút miền Trung với ngữ âm Nam bộ nên nghe chậm rãi, nhẹ nhàng và truyền cảm. Nếu đem nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu: “Giọng Thanh Hóa là giọng miền Bắc phai đi/ Giọng Phan Thiết là giọng miền Nam sắp sửa”, là chưa đúng với người La Gi bởi ở đây là một vùng đất mới, đã hình thành một diện mạo văn hóa khá phong phú và đa dạng.
Qua giọng nói cũng có thể nhận ra tính khí con người của một vùng miền. Người Nghệ Tĩnh sống ở nơi được coi là có một nền văn hóa thống nhất. Có thể khá đầy đủ qua lời cố giáo sư Đặng Thai Mai: “Can đảm đến sơ xuất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan và tần tiện đến cá gỗ”. Từ đó họ mới có được phẩm chất về ý chí, bản lĩnh, thẳng thắn và giàu lý tưởng. Có dịp ghé qua phường Phước Lộc gần như người gốc Bình Định chiếm phần đông. Hỏi ra vùng biển Đề Gi ngoài quê cũng có địa thế tương tự như ở đất này. Thừa hưởng khí phách anh hùng Tây Sơn- Nguyễn Huệ, say mê nghệ thuật hát bội nên lễ hội cầu ngư, vía Bà hàng năm trở thành ngày hội lớn của ngư dân vùng biển La Gi. Không lẫn đâu được, người Quảng Trị ở xóm Gio Linh, Mũi Đá (Tân Phước) chỉ là một phần của cộng đồng cư dân Tân Hà, Sơn Mỹ nhập cư ồ ạt từ năm 1972 và bất cứ cơ quan, doanh nghiệp nào ở địa phương cũng có thể bắt gặp qua giọng nói còn nặng phong thổ của miền đất quanh năm khô khốc, bão giông. Có lẽ vậy mà người Quảng Trị dù nay đến đời con vẫn còn quen ăn cay, món kho đạm bạc, ưa tranh luận nhưng chịu nhẫn nhịn, ai cũng phải nễ phục về ý chí vượt khó bằng con đường học hành. Thoáng qua, khó mà phân biệt đâu là giọng Quảng Ngãi với Quảng Nam. Nhưng trong quan hệ thân tình sẽ dễ thấy ở người Núi Ấn- Sông Trà, lời nói “mía ngọt đường nhiều”, không chịu thua ai, trọng hình thức, chi li, cơ cực vẫn lạc quan. Có một phần gần với tính cách Quảng Nam là tinh thần hiếu học, lễ nghĩa và rất sính thơ. Đợi dịp là có ngay vài câu hoặc cả bài cất trong bụng dạ tự bao giờ đem ra bộc bạch. Cho nên có người chọc vui: “Quảng Nam núi phủ mây mờ/ Kinh doanh thì ít làm thơ thì nhiều”. Nói thế chứ không ít người thành đạt, giàu có ở La Gi là dân gốc xứ Quảng. Nay tất cả đã trở thành người con của đất La Gi, rất khó thấy được cái nét riêng cho một địa phương đúng nghĩa, trừ cách phát âm về địa danh La Gi (la di/ zi) khác với người từ xa mới đến, không ai bảo ai, đều đọc La-ghi! Đặc điểm khác, có lẽ người La Gi đã chắt lọc, tập họp được những đức tính, lối sống có giá trị nhân văn của dân nhập cư khắp các vùng miền và thừa hưởng một môi trường thiên nhiên hào phóng nên có tính hào hiệp, thương người, cởi mở, không so đo hơn thiệt, coi trọng thủy chung…
Bản sắc văn hóa, tính cách con người La Gi ngày xưa thường biểu lộ niềm tự hào truyền thống “Ngũ Quảng lưu dân”, thì nay không còn ảnh hưởng lớn đến cộng đồng xã hội nữa, bởi qua các thời kỳ cư dân tứ xứ đến đây với thái độ chọn lựa ‘đất lành chim đậu”, đã dung hợp được một diện mạo mới của La Gi, bổ sung cho nhau từ những giá trị tính cách vùng miền. Đó là đặc trưng văn hóa của một La Gi ngày nay, hội nhập và sinh động.
Phan Chính